Ngũ Đại Thập Quốc

Ngũ đại Thập quốc (giản thể: 五代十国; phồn thể: 五代十國; bính âm: Wǔdài Shíguó, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ. Thời kỳ này phân thành Ngũ đại (907-960) cùng Thập quốc (907-979). Ngũ đại Thập quốc là một thời kỳ trọng yếu trong lịch sử Trung Quốc.Về bản chất, Ngũ đại Thập quốc là sự tiếp nối của tình trạng phiên trấn cát cứ dưới triều Đường và tình hình chính trị hậu kỳ của triều Đường. Sau khi triều Đường diệt vong, phiên trấn các nơi tự lập quốc, trong đó tại khu vực Hoa Bắc, các quốc gia phiên trấn lực mạnh được gọi là Ngũ đại, trong đó có các chính quyền do tộc Sa Đà kiến lập. Năm nước này mặc dù có thực lực lớn mạnh, song vẫn không có khả năng khống chế toàn bộ Trung Quốc bản thổ, chỉ là triều đình theo kiểu phiên trấn.Ở các phương khác cũng có một vài chính quyền phiên trấn xưng đế, một vài chính quyền phụng Ngũ đại làm tông chủ quốc, trong đó có mười nước với thời gian tồn tại tương đối lâu dài, quốc lực khá mạnh, gọi chung là "Thập quốc". Trong thời kỳ này, thường phát sinh tình huống phản biến đoạt vị, dẫn đến chiến loạn không ngừng nghỉ, những người thống trị phần nhiều là trọng võ khinh văn. Trong bối cảnh Trung Quốc có nội loạn, Khiết Đan Quốc có cơ hội xâm lấn phương Nam, Liêu Quốc được kiến lập.[tham 1]

Ngũ Đại Thập Quốc

Bính âm Hán ngữ Wǔ dài shí guó
Yale la tinh hóa Ng5 doi6 sap6 gwok3
Phiên âmTiếng Hán tiêu chuẩnBính âm Hán ngữWade–GilesTiếng Quảng ChâuYale la tinh hóaIPA
Phiên âm
Tiếng Hán tiêu chuẩn
Bính âm Hán ngữWǔ dài shí guó
Wade–GilesWu3 tai4 shih2 kuo2
Tiếng Quảng Châu
Yale la tinh hóaNg5 doi6 sap6 gwok3
IPA[ŋ tɔ̀ːy sɐ̀p̚ kʷɔ̄ːk̚]
Wade–Giles Wu3 tai4 shih2 kuo2
IPA [ŋ tɔ̀ːy sɐ̀p̚ kʷɔ̄ːk̚]
Phồn thể 五代十國
Giản thể 五代十国